Nã pháo vào tư duy “không quản được thì cấm” và cơ chế “xin-cho”

Chỉ đạo mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước đối với thương hiệu vàng miếng là phát pháo lệnh đánh thẳng vào tư duy “không quản được thì cấm”; mở đường cho một cơ chế thị trường minh bạch, cạnh tranh và hiệu quả hơn.
- Giá cát tăng cao, Đà Nẵng đề nghị Quảng Nam cùng bình ổn thị trường
- Cựu Vụ phó Nguyễn Lộc An lĩnh án 11 năm tù vì nhận hối lộ 14,2 tỷ đồng
- Chủng Covid-19 mới gây lo ngại: Tăng vụt số ca nhiễm tại Úc và toàn cầu
Nội dung chính
Từ “siết để kiểm soát” sang “mở để quản trị”
Tại cuộc làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về thị trường vàng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “Chuyển mạnh từ tư duy hành chính sang tư duy thị trường có kỷ cương, từ ‘siết để kiểm soát’ sang ‘mở để quản trị’; nhất định phải quán triệt, xóa bỏ tư duy ‘không quản được thì cấm’; đồng thời phải đưa thị trường vàng vận động phù hợp với các nguyên tắc của thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Đây là định hướng không chỉ mang tính cải cách đối với thị trường vàng mà còn định hình tư duy mới cho cả hệ thống chính sách kinh tế. Chỉ đạo của Tổng Bí thư không dừng lại ở một thông điệp, mà là yêu cầu cụ thể về hành động sau quá trình chuyển đổi tư duy, phản ánh rõ trong các nghị quyết 66, 68 và hội nghị toàn quốc vừa qua.
Độc quyền vàng – thành trì cần phá bỏ
Câu chuyện độc quyền vàng bắt đầu từ năm 2012, khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP được ban hành trong bối cảnh lạm phát tăng cao, người dân ồ ạt mua vàng để bảo toàn tài sản. Nhà nước khi đó chọn cách kiểm soát bằng cách độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu và định danh thương hiệu SJC là “vàng quốc gia”.
Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ, thay vì ổn định thị trường, cơ chế độc quyền lại khiến thị trường vàng méo mó nghiêm trọng. Việt Nam trở thành một trong hai quốc gia duy nhất (cùng với Bắc Triều Tiên) duy trì mô hình này. Giá vàng trong nước luôn cao hơn thế giới, có thời điểm chênh lệch đến 20 triệu đồng/lượng, khiến tình trạng buôn lậu bùng phát. Đường dây nhập lậu 6 tấn vàng trị giá hơn 8.400 tỷ đồng từ Campuchia là minh chứng rõ ràng cho sự thất bại của cơ chế độc quyền.
Độc quyền cũng triệt tiêu cạnh tranh. Các thương hiệu vàng tư nhân bị đánh tụt giá trị, dù cũng đạt hàm lượng 99,99%, khiến người tiêu dùng và doanh nghiệp thiệt hại. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước vừa là nhà quản lý, vừa là người tham gia thị trường – một xung đột vai trò rõ rệt và phi lý.
Sự bất ổn và hệ lụy kéo dài
Đáng chú ý, cuối năm 2024, cơ quan điều tra đã khởi tố sáu bị can tại Công ty SJC, trong đó có bà Lê Thuý Hằng – Tổng Giám đốc – vì hành vi lập khống chứng từ trong chương trình “bình ổn giá vàng”, chiếm đoạt tiền nhà nước. Điều này không chỉ phản ánh lỗ hổng trong quản lý mà còn cho thấy cơ chế độc quyền đang bị lợi dụng để trục lợi chính sách, gây tổn thất nghiêm trọng cho ngân sách và niềm tin thị trường.
Báo cáo từ Ban Chính sách, chiến lược Trung ương chỉ ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng của chính sách hiện hành:
- Quản lý thị trường kém linh hoạt, không theo cung cầu quốc tế, dẫn đến chảy máu ngoại tệ và buôn lậu.
- Độc quyền cản trở cạnh tranh và kìm hãm năng lực phát triển của ngành kinh doanh vàng.
- Thiếu cơ chế huy động nguồn lực nhàn rỗi trong dân, khiến dòng tiền bị “chôn” vào vàng thay vì đưa vào sản xuất.
- Quản lý lạc hậu, không bắt kịp xu hướng thị trường hiện đại.
Các nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm Fulbright, nhấn mạnh rằng cơn sốt vàng không phải do người dân đầu cơ vô tội vạ, mà là hệ quả từ bất ổn vĩ mô hoặc do giá vàng quốc tế tăng cao. Trong khi đó, Chính phủ liên tục khẳng định kinh tế vĩ mô đã ổn định nhiều năm nay.
Đã đến lúc dỡ bỏ “bức tường xin – cho”
Việc Ngân hàng Nhà nước – vốn là cơ quan quản lý – lại giữ vai trò độc quyền sản xuất một loại hàng hóa như vàng miếng là nghịch lý cần sớm chấm dứt. Đã đến lúc sửa đổi Nghị định 24, để thiết lập lại một thị trường vàng vận hành đúng theo quy luật thị trường, có sự quản lý nhưng không bị bóp nghẹt bởi tư duy cũ kỹ “không quản được thì cấm”.
Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là mệnh lệnh cải cách. Nếu được triển khai nghiêm túc, sẽ mở ra một thời kỳ mới: thị trường minh bạch hơn, kinh doanh bình đẳng hơn, và tư duy quản lý hiện đại, không còn là rào cản cho sự phát triển.
9 giải pháp được Tổng bí thư Tô Lâm nêu rõ:
(1) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nhanh chóng sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP theo hướng thị trường hóa có lộ trình và có kiểm soát chặt chẽ; tạo sự kết nối hiệu quả hơn giữa thị trường vàng trong nước và thị trường quốc tế.
(2) Xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước về thương hiệu vàng miếng một cách có kiểm soát trên nguyên tắc Nhà nước vẫn quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng; nhưng có thể cấp phép cho nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia sản xuất vàng miếng nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng; từ đó giúp đa dạng hóa nguồn cung và ổn định giá cả;
(3) Mở rộng quyền nhập khẩu có kiểm soát để tăng cung vàng, góp phần giảm chệnh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới; đồng thời hạn chế tình trạng buôn lậu vàng qua biên giới;
(4) Khuyến khích phát triển thị trường vàng trang sức trong nước để từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế tác; xuất khẩu vàng trang sức chất lượng cao, chuyển hóa vàng tích trữ thành sản phẩm có giá trị gia tăng;
(5) Phát triển các kênh đầu tư thay thế hấp dẫn để huy động vàng từ trong dân cư vào nền kinh tế;
(6) Nâng cao hiệu quả quản lý và phối hợp liên ngành, nhất là trong phòng, chống buôn lậu vàng;
(7) Phát huy vai trò của Hiệp hội kinh doanh vàng, làm cầu nối giữa doanh nghiệp vàng với cơ quan quản lý, kịp thời phản ánh khó khăn; kiến nghị và phối hợp thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường khi cần;
(8) Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và niềm tin vào đồng tiền Việt Nam, coi đây là giải pháp căn bản, lâu dài để chuyển hóa nguồn lực từ vàng vào phát triển kinh tế;
(9) Sớm xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về thị trường vàng nhằm tăng tính công khai, minh bạch; để thu thuế, quản lý, đánh giá tác động đối với thị trường vàng ngoại hối, tỷ giá, các kênh đầu tư khác nhau.
Theo: Vietnamnet