Gạo Việt khó vào Nhật dù nước bạn đang thiếu: Vì sao?

Dù giá gạo tại Nhật Bản tăng cao vì nguồn cung thiếu hụt, doanh nghiệp Việt vẫn chật vật đưa hàng vào thị trường này. Nguyên nhân không chỉ nằm ở số lượng mà là những rào cản kỹ thuật khắt khe, đòi hỏi ngành gạo Việt Nam phải thay đổi toàn diện nếu muốn bước chân bền vững vào thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng này.
- Lằn ranh thiện – ác: Một bước lầm, trăm nỗi đau
- Cơ sở hạt nhân Iran bị tấn công – Nhìn lại bài học xương máu từ các thảm họa hạt nhân trong lịch sử
- Cây cỏ lào – Từ dân gian đến nghiên cứu hiện đại
Nội dung chính
Giá gạo Nhật tăng, nhưng xuất khẩu không dễ
Nhiều ngày qua, giá gạo tại Nhật Bản tăng mạnh do nguồn cung khan hiếm. Tuy nhiên, để gạo Việt Nam vào được thị trường này lại không đơn giản, bởi yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình canh tác.
Các doanh nghiệp Việt đang gặp khó, dù nhu cầu từ phía Nhật tăng rõ rệt. Theo ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (TP Cần Thơ), hiện Nhật Bản chủ yếu nhập hai loại gạo ST25 và Japonica. Giá FOB đối với Japonica không dưới 850 USD/tấn và ST25 lên tới 1.500 USD/tấn – cao hơn khoảng 30% so với các thị trường khác.
Vừa qua, Trung An đã xuất 500 tấn gạo phát thải thấp sang Nhật với giá 820 USD/tấn. Doanh nghiệp này cho biết sẽ tiếp tục xuất thêm 2.500 tấn vào tháng 10 với giá dự kiến trên 1.000 USD/tấn.
Nhật cần, nhưng tiêu chuẩn cực kỳ nghiêm ngặt

(Ảnh Báo Tuổi Trẻ)
Ông Lê Anh Nam – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Tân Long – cho biết doanh nghiệp của ông đang xuất từ 1.000 đến 2.000 tấn gạo/tháng sang Nhật, với giá trung bình 850–900 USD/tấn. Ông nhận định, phía Nhật Bản hiện đang tăng nhập khẩu để bù đắp cho lượng gạo dự trữ quốc gia đã tung ra thị trường.
Dù vậy, để có mặt ổn định tại thị trường này, doanh nghiệp phải đáp ứng toàn bộ tiêu chuẩn nghiêm ngặt về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, quy trình sản xuất, và đặc biệt là sự truy xuất nguồn gốc minh bạch.
Theo ông Đỗ Hà Nam – Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), đây là thách thức rất lớn. “Không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực kiểm soát chặt chẽ thuốc, hóa chất, sâu bệnh trong toàn bộ chuỗi sản xuất. Nếu làm được thì lợi ích rất lớn, vì đây là thị trường có giá trị cao và ổn định”, ông nói.
Đề án 1 triệu ha lúa: Chìa khóa vào thị trường khó tính
Theo ông Phạm Thái Bình, tình trạng thiếu hụt lương thực đang diễn ra ở nhiều quốc gia, không chỉ Nhật Bản. Tuy nhiên, cơ hội chỉ đến với những quốc gia có chiến lược sản xuất bài bản và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt.
Ông khẳng định Việt Nam có lợi thế lớn nếu triển khai tốt Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải. Trong đó, việc các địa phương phê duyệt các dự án liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ là yếu tố then chốt giúp mở rộng vùng nguyên liệu đạt chuẩn.
“Chúng ta hoàn toàn có thể đưa gạo vào Nhật, Mỹ, châu Âu hay Trung Đông nếu tuân thủ chặt các tiêu chí của Đề án này. Đây là cơ hội lớn để kết thúc thời kỳ ‘được mùa mất giá’, chuyển hẳn sang nền nông nghiệp bền vững”, ông Bình nhấn mạnh.
ĐBSCL đã quen với canh tác chuẩn
Ông Trần Thanh Hiệp – Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh An Giang – cho biết nhiều nông dân Đồng bằng sông Cửu Long đã quen dần với quy trình sản xuất theo chuẩn 145 của Đề án 1 triệu ha lúa giảm phát thải. Đây là tín hiệu tốt để kỳ vọng việc xuất khẩu gạo sang các thị trường khó tính sẽ thuận lợi hơn trong thời gian tới.
Việc Trung An xuất khẩu thành công 500 tấn gạo phát thải thấp sang Nhật là bước đệm quan trọng. Tuy nhiên, để nhân rộng mô hình, theo ông Đỗ Hà Nam, Việt Nam cần một chiến lược quốc gia cụ thể và sự hỗ trợ sát sao từ Nhà nước. “Không thể để doanh nghiệp đơn phương ‘bơi’ giữa thị trường toàn cầu với hàng rào kỹ thuật dày đặc”, ông nói.
Theo Báo Tuổi Trẻ