Tiếp theo đợt hạn hán 2019, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang rơi vào “cơn khát” nước ngọt trầm trọng. Ở nơi sông nước mênh mông bao đời này, giờ đây người dân ĐBSCL đang phải mang can mua nước ngọt. Ngoài biến đổi khí hậu toàn cầu, sử dụng nước tại chỗ bất hợp lý, thì các đập thủy điện, đặc biệt 11 đập của Trung Quốc ở thượng nguồn, được coi là nguyên nhân chính gây hạn hán. Tuy nhiên, cho đến gần đây chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ.

Đầu tháng 4/2020, Ông Alan Basist, khí tượng gia và chủ tịch của Eyes on Earth, người đã thực hiện nghiên cứu dưới sự tài trợ của dự án Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết: “việc các đập thủy điện trên thượng nguồn Mê Kông giữ nước là nhân tố gây ra hạn hán tại hạ lưu”. Ngay sau khi nghiên cứu của Hoa Kỳ được công bố, một số quốc gia hạ lưu Mê Kông đã lên tiếng yêu cầu Trung Quốc tường minh thông tin về các đập thủy điện.
Liệu kết quả điều tra mới về vai trò của gây hạn hán của đập thủy điện Trung Quốc có góp phần cứu vãn dòng Mê Kông?

Điều tra mới cho thấy điều gì?

videoinfo__video.tin360.tv||86499e854__

Ad will display in 09 seconds

Cuối tháng 2/2020, trong tình trạng hạn hán chưa từng thấy trên dòng Mê Kông, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã lên tiếng trấn an, đồng thời khẳng định Trung Quốc lâm vào tình trạng tương tự. Tuy nhiên, theo thời báo New York, các nghiên cứu về khí hậu, thủy văn, bằng vệ tinh, cho thấy điều ngược lại.
Điều tra của công ty Eyes on Earth, cho thấy đã có rất nhiều nước từ cao nguyên Tây Tạng đổ về Trung Quốc, đúng vào giai đoạn mà Bắc Kinh tuyên bố phía Trung Quốc cũng bị hạn hán. Giám đốc điều tra, ông Alain Basist, nhấn mạnh: ‘‘Không thể bác bỏ được các dữ liệu từ vệ tinh, trong khi có rất nhiều nước trên cao nguyên Tây Tạng, thì những nước như Campuchia và Thái Lan lại lâm vào cảnh thiếu nước… Đã có một lượng nước khổng lồ bị Trung Quốc giữ lại’’.
Theo điều tra của Eyes on Earth, trữ lượng nước của thủy điện Trung Quốc là khoảng 47 tỉ mét khối. Theo kết quả điều tra về lượng nước Mê Kông suốt 28 năm, các đập thủy điện của Trung Quốc đã giữ lại tổng cộng một lượng nước của dòng sông, tương đương với chiều cao khoảng 130 mét.
Theo báo cáo thì việc sử dụng một cách tuỳ tiện lượng nước khổng lồ này của các đập thủy điện Trung Quốc đã làm hạ lưu thêm khô hạn. Nhu cầu có nước cho thủy điện, với ngày nhiều đập hơn, đã biến Mê Kông thành dòng sông không còn mùa lũ. Sông Mê Kông ‘‘mùa mưa’’ 2019 vốn ít nước lại càng khô cạn hơn, bởi nước được còn phải để dành cho thủy điện hoạt động vào ‘‘mùa khô’’.

Phản ứng của Trung Quốc sau báo cáo của Mỹ

Hôm 13/04, bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã lên tiếng bác bỏ, khẳng định năm ngoái tỉnh Vân Nam, miền tây nam Trung Quốc, vừa hứng chịu hạn hán nghiêm trọng và lượng nước trong hồ chứa tại các đập thủy điện đã giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cam kết ‘‘sẽ hết sức cố gắng để đảm bảo lượng nước xả hợp lý” cho các quốc gia ở hạ lưu sông Mê Kông, bao gồm Lào, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.
Tác động của 11 đập thủy điện của Trung Quốc ở thượng nguồn Mê Kông, luôn là vấn đề tranh luận. Bắc Kinh luôn che giấu thông tin chi tiết về lượng nước trong các hồ chứa.
Hoa Kỳ dường như ngày càng quan tâm hơn đến cuộc khủng hoảng nước tại lưu vực Mê Kông. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo từng phát biểu tại Thái Lan rằng đợt hạn hán nghiêm trọng năm 2019 là do ‘‘Trung Quốc chặn dòng nước ở thượng nguồn sông Mê Kông”. Hoa Kỳ nhiều lần lên án Trung Quốc rắp tâm kiểm soát hoàn toàn dòng Mê Kông.
Theo ông Brian Eyler, tác giả cuốn ‘‘Những ngày cuối cùng của sông Mê Kông’’, thì hoặc Bắc Kinh, hoặc những người trực tiếp quản lý các đập thủy điện đã che giấu sự thật. Dựa trên các dữ liệu vệ tinh của cuộc điều tra, giám đốc chương trình Đông Nam Á của trung tâm tư vấn Stimson Center, Washington đã không ngần ngại khẳng định.

Kêu gọi Trung Quốc hợp tác điều tra

videoinfo__video.tin360.tv||d4d014500__

Ad will display in 09 seconds

Thái Lan là quốc gia có phản ứng sớm. Hôm 16/04, cơ quan phụ trách tài nguyên nước của Thái Lan đã kêu gọi Trung Quốc và các quốc gia láng giềng phối hợp nghiên cứu tình trạng hạn hán ghê gớm hồi năm ngoái tại hạ lưu Mê Kông.
Giám đốc chương trình bảo vệ sông ngòi tại Thái Lan và Miến Điện, bà Pianporn Deetes, vui mừng là kết quả điều tra vừa được Hoa Kỳ công bố cho phép xác nhận các quan sát của dân cư dọc sông Mê Kông từ nhiều năm nay.
Hồi tháng 2/2020, ngoại trưởng Trung Quốc từng hứa sẽ chia sẻ thông tin về các đập thủy điện với các đồng nhiệm Đông Nam Á tại Lào. Tuyên bố được đưa ra, sau khi có cáo buộc Trung Quốc sử dụng các đập thủy điện trên dòng Mê Kông để thao túng các quốc gia ở hạ lưu.

Hà Nội có phản ứng gì?

Việt Nam dường như rất dè dặt sau khi kết quả điều tra của Eyes Earth được công bố. Tác động của đập thủy điện Trung Quốc đến tình trạng hạn hán ở hạ lưu là điều lâu nay ai cũng biết. Nhưng có hai quan điểm đối lập khá rõ ràng. Một cho rằng ảnh hưởng là có, cần tìm hiểu, nhưng lý do chính là biến đổi khí hậu toàn cầu, và chính sách sử dụng nước sai lầm của chính Việt Nam tại đồng bằng Cửu Long.
Việt Nam dường như tập trung chú ý nhiều hơn đến mục tiêu cứu hạn tại chỗ, với các biện pháp trong tầm tay, hơn là “làm phiền” Trung Quốc.
Trong bối cảnh này, có một quan điểm được nhiều người chú ý của giáo sư Chung Hoàng Chương, trong bài ‘‘Chung một dòng sông’’, đăng ngày 01/03 trên VnExpress. Giáo sư Chương khẩn thiết lưu ý ‘‘bắt đầu ngay từ bây giờ, (cần) nỗ lực đi đến một Hiệp định ứng xử cho toàn lưu vực với sáu quốc gia đang chia sẻ nguồn nước giống như Hiệp định khai thác và phát triển lưu vực sông Rhine ở châu Âu’’.
Điều tra về các đập thủy điện thượng nguồn, xác định phần tác động của Trung Quốc, là một yếu tố không thể thiếu cho tầm nhìn dài hạn này. Năm 2020, Việt Nam là chủ tịch luân phiên ASEAN. Liệu trên cương vị này, Hà Nội có thúc đẩy cho sự hình thành một tầm nhìn như vậy hay không, điều đó lịch sử sẽ ghi nhận.